Thứ Năm, 16 tháng 8, 2018

CHUYỆN ANH THƯƠNG BINH
Truyện ngắn

       Bỗng có tiếng kêu hốt hoảng của lũ trẻ con: “ ối giời ôi có người chết trên cầu”, mới sáng ra mọi người còn chưa đi làm, nghe tiếng kêu vội vàng lục tục chạy ra.
Cây cầu được ghép bằng hai cây gỗ qua một con sông đào chừng hai chục mét để dân xóm hàng ngày đi làm, hoặc đi chợ. Đúng rồi! có gã đàn ông trạc tuổi trung niên nằm sấp trên cầu, hai tay, hai chân buông sõng không biết còn sống hay đã chết, quần áo lấm lem đất bùn. Mấy bà đàn bà sợ quá chắp tay vái lia lịa, người xóm kéo ra ngày một thêm đông.
       Ông Thanh trưởng thôn ngủ dậy còn mặc quần đùi, áo cộc cùng anh thư ký đội sản xuất giấy bút trên tay như sẵn sàng lập biên bản. Mọi người giãn ra nhường lối, ông nắm tay dàn vịn đi dần ra, đến nơi từ từ cúi xuống nhìn, thấy cái xác động đậy rồi rên khe khẽ. Ông lay người nâng đầu lên thì nhận ra lão Quậy ở xóm giữa, với hơi rượu nồng nặc, xen lẫn mùi khai khai của thứ nước thải còn ướt đẫm đũng quần, ông vội bịt mũi lùi lại rồi huy động cánh thanh niên từ từ đưa lão vào bờ.
       Lão Quậy chừng độ ngoài năm mươi nhưng trông hắn như gần bảy mươi tóc bạc lốm đốm, lúc nào cũng bộ quần áo bộ đội cũ đã vá vài miếng, mặt mũi sần sùi vết sẹo, hai mí mắt sụp xuống, cánh mũi to đỏ mọng như quả cà chua. lão đi đến đâu là trẻ con lánh xa bởi mùi chua chua của người ít tắm phả ra cùng mùi rượu. Mấy bà dỗ trẻ toàn lấy lão ra để dọa : Ăn đi, nín đi, không lão Quậy đến bây giờ thế là bọn trẻ im thin thít.
Ngày mới nhập ngũ lão cũng đẹp trai lắm chứ, về phép đi B trong bộ quân phục gabadin TQ xanh màu lá cây, trên ve áo quân hàm binh nhất đỏ rực làm nao lòng các cô gái trong thôn. Nhà lão nghèo có mình là con một, nhưng do làm đơn tình nguyện lão mới được nhập ngũ, cha mẹ còn cả tuy chưa già nhưng cha lão mắc bệnh nên yếu lắm, kinh tế gia đình chủ yếu nhờ vào mẹ lão.
         Ở chiến trường nghe đâu lão đã từng chiến đấu ở Tây Nguyên ba năm cũng có huân huy chương chiến dịch. Trong một trận chiến đấu ở Playcu năm 1974 lão bị thương vào chân và bỏng nặng do bom Napan, điều trị khỏi nhưng còn để lại nhiều vết sẹo ở trên mặt và thân thể. Thế là lão được ra Bắc. Về quê thì cha đã mất, lão rất thương mẹ nên đã xin phục viên về quê.
         Thời bao cấp sau chiến tranh khó khăn mọi bề nhưng có 13 kg gạo phiếu, và phụ cấp thương binh mẹ con lão cũng không đến nỗi nào. Lão chịu khó dù là lên rừng xuống biển ai nói làm ăn được lão cũng theo, rồi lúc lại ở quê làm phụ xây, đóng gạch thuê cho mọi nhà, được cái là lão khỏe, hai bắp tay cuồn cuộn như dân tập thể hình, những ngày mưa đường trơn như đổ mỡ, bốn thúng phân lão gánh phăng phăng ra đồng. Tính hiền lành gặp ai cũng chỉ cười, lão chẳng ham chơi bời cờ bạc hay đàn đúm như một số thanh niên trong làng mà thú vui nhất của lão là thuốc lào và nước chè.
         Đối với phụ nữ bấy giờ lão rất có giá, là bộ đội thương binh từ chiến trường ra , tuy mặt mũi có xấu đi chút ít nhưng lão vẫn là chàng trai cường tráng hiền lành nên nhiều người để ý. Lão lấy vợ, vợ tên là Thuần ở làng bên sắc đẹp thuộc loại trung bình nhưng được cái chịu khó. Sau thời gian nhờ mối hỏi, đám cưới được tổ chức nhanh chóng, thời ấy dăm bao thuốc nửa cân chè ra UBHC xã là xong.
Cuộc sống mưu sinh vất vả nhưng hạnh phúc, sau vài năm mẹ lão mất còn lại hai vợ chồng, cuộc sống cũng không khó khăn lắm bới cả hai cùng chịu khó. Nhưng nỗi đã 10 năm rồi mà vẫn chưa có con, bao tiền của dắt díu nhau bệnh viện này sang bệnh viện khác nhưng cũng không kết quả. cùng tuổi như lão lúc này mọi người đã có con đi học. Vợ lão lúc nào cũng thở dài, trong nhà mong có tiếng khóc trẻ thơ.
Làm ăn ngày một khó khăn ba gian nhà tranh không đủ rạ để lợp, mưa gió dột tứ tung, lão dạo này dở chứng ốm đau luôn, lão bàn xin con nuôi nhưng vợ không đồng ý. Nhiều lúc buồn lão thường uống rượu dải khuây rồi nói lung tung. Nhưng khi bình thường lão là người tốt nết ai nhờ gì cũng giúp đến nơi, đến chốn, mổ lợn làm cỗ cả đêm không ngại ngần. Gia chủ biết tật hay uống rượu nên khi về dúi thêm cho lão chai rượu và ít đồ nhắm lão cười tít mắt, dần dà con ma men đã ngấm vào lão, sinh tính đổi nết vợ chồng cãi nhau luôn.
         Nghe một số chị em rủ rê, vợ lão bàn: bây giờ rảnh rỗi, mình ở nhà, tôi đi phụ hàng cho các chị xóm bên, lên Lạng Sơn mang hàng về xuôi công mỗi tháng bằng cấy cả vụ. Lúc đầu lão quyết không nghe nhưng sau nhiều lần lão cũng phải đồng ý.
Thuần theo mấy người lên Lạng sơn lúc thì gánh thuê, lúc thì giúp việc cho một cửa hàng tối về ở trọ ngoài xóm bãi bìa rừng, tuy vất vả nhưng thu nhập cũng được, mỗi tháng về một lần sau thưa dần, rồi không về nữa. Có tin đồn cô Thuần vợ lão cặp kè với một tay cửu vạn ở Lạng sơn đã có con với nhau, cũng có tin Thuần sang TQ lấy chồng. Ai hỏi lão Quậy cũng cũng chẳng hé răng, hàng ngày đi về như một cái bóng, buồn lão lại uống rượi giải sầu. Vợ bỏ đi lão đã linh cảm từ trước nhưng cái không ngờ là nó xảy ra quá nhanh và đúng thời điểm này mà thôi. Dạo này ít việc làm, lão sống nhờ vào tiền trợ cấp thương binh, vài củ khoai, gói mỳ tôm là xong bữa, riêng có rượu thì không thể thiếu
Càng ngày sức khỏe càng giảm, thời gian say nhiều hơn tỉnh, lúc tỉnh thì lão lầm lũi, lúc say thì lão khóc, khóc rồi lại chửi. Lão căm thù đàn bà, lão chửi tất cả đàn bà trên thế gian này, nhất là Thuần người vợ mà lão rất yêu quý, đã phản bội lão. 
Thường ngày lão mua rượu ở quán đầu làng, có tiền thì trả , hết tiền mua chịu,. Một hôm bà hàng rượu khuyên can: “ uống ít thôi kẻo ảnh hưởng sức khỏe”, lão liền trợn mắt, hai má loang lổ sẹo thâm như hai miếng thịt trâu giật lên, chùng xuống trông mà khiếp. Nhưng được cái cứ đầu tháng có phụ cấp là lão trả hết thiếu mua chịu sau. có rượu như tiếp thêm sức sống, hắn lại chửi bới, hàng xóm xung quanh quen tai chẳng lạ gì, người ta gọi lão là Chí Phèo thời mới, có đợt mấy ngày lão chẳng ra khỏi nhà, ăn mỳ tôm, tu rượu, say lại chửi, chửi rồi lại ngủ,
         Hôm nay gã chuẩn bị đi làm thì có tiếng gọi, lão mở cửa thì ra vợ lão về, tay xách nhiều thứ, mới có vài năm mà trông cô nàng trẻ ra vài tuổi khuôn mặt tươi rói, thân hình khúc nào ra khúc ấy, lão mừng quá thế là từ nay hắn hết cô đơn và không uống rượu nữa vợ chồng hạnh phúc, vợ lão có mang chín tháng sinh con trai bụ bẫm, vợ lão nựng: “thằng Quậy con của mẹ giống bố ghê này”. rồi thằng bé cứ mỗi ngày, mỗi lớn biết tiếng gọi pa, pa.. vui lắm, lão sắm chiếc xe đạp thật đẹp để hàng ngày chở con đi chơi khoe với thiên hạ. Nhưng rồi những giọt mưa trái mùa xuyên qua mái rạ đã cùn nát rơi xuống mặt, làm lão bừng tỉnh, thì ra là một giấc mơ, miệng lão vẫn tóp tép như cố nhấm nháp hương vị hạnh phúc ngọt ngào đang còn vương vất nơi đây. 
          Rồi lão lại tu rượu, chán uống ở nhà, chửi không có người nghe thì lão ra quán có hôm say quá nằm ngủ ngay rãnh nước ven đường, thậm chí lên cả cây cầu để ngủ. 
Hai hôm liền không thấy lão chửi, cửa liếp ba gian nhà tranh vẫn đóng im ỉm, hàng xóm thấy lạ báo với thôn, tổ bảo vệ đến gọi không thấy tiếng trả lời liền đẩy cửa vào, mọi người hoảng hồn chạy ra lão..lão Quậy… đã chết, thân cứng đờ nằm nguyên dưới đất. Được tin họ hàng vội cho người đến nhà dọn dẹp, khâm liệm chuẩn bị đám tang. Lúc truy điệu người ta phủ lên quan tài lá quốc kỳ, và hai hàng tiêu binh đứng nghiêm trang, dù sao lão cũng là CCB.

       Nhiều người thở dài…. thôi thế cũng xong một kiếp người. Khi trưởng ban tang lễ đọc lời điếu và thông báo: lão có cả Huân chương chiến công và huy hiệu chiến dịch, còn tờ giấy này là xét nghiệm ở bệnh viện, lão bị vô sinh do chất độc da cam, điều này lão đã dấu vợ. Những giọt nước mắt cảm thương lăn dài trên gò má những người đến đưa tang, họ bảo nhau thôi thì vẫn còn may cho lão, chứ sinh ra vài đứa con, người chẳng ra người, thú chẳng ra thú thì còn khổ đến bao giờ.

TRƯỜNG XƯA

TRƯƠNG XƯA
  (Bài viết chào mừng lễ kỷ niệm 40 năm thành lập trường)
         
       Trường trung học phổ thông Nguyễn trung Ngạn nằm cạnh con đường liên huyện mềm mại như một dải lụa vắt qua cánh đồng làng. Chiều vào thu gió heo may nhè nhẹ, những ruộng lúa ngả màu vàng đang vào mùa thu hoạch, hoàng hôn tím dần. Mắt tôi hơi cay cay vì mùi khói rơm, xen lẫn mùi nồng nồng của đất nhưng dễ chịu vô cùng
         Thả hồn trong những suy tư, bỗng ký ức xa xưa lại ùa về, cũng trên cánh đồng này bọn trẻ chúng tôi nô đùa chạy nhảy, vào mùa gặt thì mót thóc, rồi theo bố mẹ ra đồng hái đỗ, nhổ lạc. Cánh đồng này năm xưa là khu trồng đỗ lạc, vào cuối năm những ruộng lạc ngả màu vàng nhổ lên những chùm củ chi chít, tôi  thích nhất món khoai lang luộc ăn với lạc sống, sao vừa ngọt vừa bùi, tuyệt vời đến thế. Rồi những ngày mưa giông bọn trẻ cởi trần bắt cá rạch, những con rô gặp nước mừng rỡ giương vây và nhảy lên các bờ cỏ. Hạt mưa dàn dạt như kim châm vào thân thể nhưng vẫn ham bởi giỏ cá nặng ngang lưng.
       Rồi những trưa hè trời nắng như đổ lửa, cua cá sao mà nhiều thế, bởi lúc đó chưa có thuốc trừ sâu, diệt cỏ như bây giờ. Khi nước nóng cua ngoi lên thân lúa chỉ việc bắt cho vào giỏ, cá trạch thi nhau chui vào hang nhỏ ven bờ tìm chỗ mát , chỉ cần hứng rổ ngoài miệng rồi lấy tay moi ra thì đủ nấu một nồi riêu. Mùa đông nước cạn những vũng bùn còn thâm màu đất,  trạch dồn về mọi người mang cuốc ra cuốc những con trạch to mập vàng óng đang ẩn mình dưới lớp đất bùn ngoe ngẩy. Mang về om với củ chuối thì ngon tuyệt.
     Nhà tôi có cây khế chua không biết trồng từ bao giờ thân mốc mác nhưng quả trĩu cành, mỗi mùa cá cả xóm đến mua hoặc xin về nấu. Bây giờ nhớ tới nồi cá kho với khế ngày ấy, nhất là hầm trấu nhừ hết cả xương ngon hết chê. Cá kho làng Vũ Đại bây giờ cũng chưa chắc đã bằng, sức trẻ như bọn tôi lúc bấy giờ ăn không biết no mẹ tôi thường bảo:” có cá đổ vạ cho cơm”
Năm 1978 trường tôi bắt đầu xây dựng trên cánh đồng ấy. Chúng tôi là học sinh khoá 1 nên sáng học nhờ ở kho gạo dưới làng Đan tràng cách trường 2km, chiều về lao động vác đất vượt nền,lên huyện đóng bè tre gỗ kéo dọc sông khoảng 10km về xây trường. Hai năm lao động liên tục , đến năm thứ ba ngôi trường gần hoàn thành chúng tôi được chuyển về ngôi trường mới.Được về học ở ngôi trường mới ai cũng thích vì nó cao ráo sáng sủa , được tận hưởng làn gió mát từ cánh đồng thổi đến ,nghe tiếng rào rào của đàn vịt đẻ nhà ai đang  tìm mồi ngay cạnh cửa sổ lớp học.
Từ đó vùng quê tôi có một âm thanh mới là tiếng trống trường.
      Tuổi trẻ của chúng tôi đã đến trường theo hiệu lệnh của tiếng trống trường...dù cho năm tháng đã qua đi,song âm thanh của nó vẫn còn mãi mãi trong ta như một hoài niệm.
Các làng quê xa xôi hẻo lánh ,đến các thị thành náo nhiệt đông vui,ở đâu,âm vang ngọt ngào và ấm áp của nó cũng gợi cho ta bao trìu mến,nó gắn tuổi thanh xuân của ta với học đường.
Từ cụ ông,cụ bà đến các bậc cha mẹ anh chị,mỗi khi nghe trống đổ hồi...tùng...tùng...tùng,cả nhà rộn lên thúc giục con em mình mau đến lớp.mười năm học phổ thông,tiếng trống trường thường xuyên nhắc nhở,động viên khích lệ bằng thứ âm thanh mà không dễ gì những âm thanh khác có được.
Hằng ngày trống trường gọi ta đi học buổi sáng,buổi chiều,trống đổi giờ và tan học.Chúng ta chấp hành vì nó gọi ta bằng tiếng nói thiêng liêng chân thành và cao cả.
Ngoài ra nhân dân sống quanh trường cũng chịu ảnh hưởng bởi cái lệnh không có sự ràng buộc đó,dần dần trở thành thói quen để sắp xếp công việc và sinh hoạt trong gia đình.Vì lẽ đơn giản tiếng trống trường là giờ giấc,là qui ước về thời gian.Chẳng thế nó còn khắc sâu vào ký ức của mỗi chúng ta bao niềm thương nỗi nhớ,bao chuyện vui buồn của thời học trò,nó thong thả buông ra từng tiếng một ,chìm lắng trong không gian để gọi chiều về,một ngày đã trôi qua.Năm học này kế tiếp năm học khác,từ đây sự tích lũy vốn sống,vốn tri thức của chúng ta được phát triển theo năm tháng cùng tiếng trống trường.
Năm học kết thúc,bắt đầu ba tháng hè,tiếng con ve kêu buồn,như gợi lại thiếu vắng tiếng trống trường,ta hằng ước năm học mới bắt đầu.
Lớn lên đi đây đi đó,chúng ta được nghe thêm nhiều tiếng trống nữa:trống trận,trống hội,trống hộ đê,trống báo động,trống đưa người vĩnh biệt cõi đời...Nhưng chỉ có một tiếng trống mà ta yêu quí nhất,tiếng trống trường ,từ trong âm thanh êm ả đó hiện lên trong ta hình ảnh một ngôi trường cụ thể không hề lẫn lộn với bất kỳ ngôi nhà cao tầng nào khác , trường trung học phổ thông Nguyễn trung Ngạn.
Với hình ảnh các thày ,các cô đã đứng trên bục giảng .Sự nghiệp trồng người của các thày ,cô đã dìu dắt bao thế hệ học sinh trưởng thành và tiếng trống trường ngày ấy còn vang vọng đâu đây,nó đã khắc sâu vào tâm khảm chúng ta thứ âm thanh đặc biệt đến kỳ lạ ,đã lay động hàng triệu con tim.

Dương Văn Cường
475 tổ 1 Nam tân nam khê Uông bí Quảng ninh
Đt:0943006408
TRƯỜNG XƯA
 TRƯỜNG XƯA
  (Bài viết chào mừng lễ kỷ niệm 40 năm thành lập trường)
         
       Trường trung học phổ thông Nguyễn trung Ngạn nằm cạnh con đường liên huyện mềm mại như một dải lụa vắt qua cánh đồng làng. Chiều vào thu gió heo may nhè nhẹ, những ruộng lúa ngả màu vàng đang vào mùa thu hoạch, hoàng hôn tím dần. Mắt tôi hơi cay cay vì mùi khói rơm, xen lẫn mùi nồng nồng của đất nhưng dễ chịu vô cùng
         Thả hồn trong những suy tư, bỗng ký ức xa xưa lại ùa về, cũng trên cánh đồng này bọn trẻ chúng tôi nô đùa chạy nhảy, vào mùa gặt thì mót thóc, rồi theo bố mẹ ra đồng hái đỗ, nhổ lạc. Cánh đồng này năm xưa là khu trồng đỗ lạc, vào cuối năm những ruộng lạc ngả màu vàng nhổ lên những chùm củ chi chít, tôi  thích nhất món khoai lang luộc ăn với lạc sống, sao vừa ngọt vừa bùi, tuyệt vời đến thế. Rồi những ngày mưa giông bọn trẻ cởi trần bắt cá rạch, những con rô gặp nước mừng rỡ giương vây và nhảy lên các bờ cỏ. Hạt mưa dàn dạt như kim châm vào thân thể nhưng vẫn ham bởi giỏ cá nặng ngang lưng.
       Rồi những trưa hè trời nắng như đổ lửa, cua cá sao mà nhiều thế, bởi lúc đó chưa có thuốc trừ sâu, diệt cỏ như bây giờ. Khi nước nóng cua ngoi lên thân lúa chỉ việc bắt cho vào giỏ, cá trạch thi nhau chui vào hang nhỏ ven bờ tìm chỗ mát , chỉ cần hứng rổ ngoài miệng rồi lấy tay moi ra thì đủ nấu một nồi riêu. Mùa đông nước cạn những vũng bùn còn thâm màu đất,  trạch dồn về mọi người mang cuốc ra cuốc những con trạch to mập vàng óng đang ẩn mình dưới lớp đất bùn ngoe ngẩy. Mang về om với củ chuối thì ngon tuyệt.
     Nhà tôi có cây khế chua không biết trồng từ bao giờ thân mốc mác nhưng quả trĩu cành, mỗi mùa cá cả xóm đến mua hoặc xin về nấu. Bây giờ nhớ tới nồi cá kho với khế ngày ấy, nhất là hầm trấu nhừ hết cả xương ngon hết chê. Cá kho làng Vũ Đại bây giờ cũng chưa chắc đã bằng, sức trẻ như bọn tôi lúc bấy giờ ăn không biết no mẹ tôi thường bảo:” có cá đổ vạ cho cơm”
Năm 1978 trường tôi bắt đầu xây dựng trên cánh đồng ấy. Chúng tôi là học sinh khoá 1 nên sáng học nhờ ở kho gạo dưới làng Đan tràng cách trường 2km, chiều về lao động vác đất vượt nền,lên huyện đóng bè tre gỗ kéo dọc sông khoảng 10km về xây trường. Hai năm lao động liên tục , đến năm thứ ba ngôi trường gần hoàn thành chúng tôi được chuyển về ngôi trường mới.Được về học ở ngôi trường mới ai cũng thích vì nó cao ráo sáng sủa , được tận hưởng làn gió mát từ cánh đồng thổi đến ,nghe tiếng rào rào của đàn vịt đẻ nhà ai đang  tìm mồi ngay cạnh cửa sổ lớp học.
Từ đó vùng quê tôi có một âm thanh mới là tiếng trống trường.
      Tuổi trẻ của chúng tôi đã đến trường theo hiệu lệnh của tiếng trống trường...dù cho năm tháng đã qua đi,song âm thanh của nó vẫn còn mãi mãi trong ta như một hoài niệm.
Các làng quê xa xôi hẻo lánh ,đến các thị thành náo nhiệt đông vui,ở đâu,âm vang ngọt ngào và ấm áp của nó cũng gợi cho ta bao trìu mến,nó gắn tuổi thanh xuân của ta với học đường.
Từ cụ ông,cụ bà đến các bậc cha mẹ anh chị,mỗi khi nghe trống đổ hồi...tùng...tùng...tùng,cả nhà rộn lên thúc giục con em mình mau đến lớp.mười năm học phổ thông,tiếng trống trường thường xuyên nhắc nhở,động viên khích lệ bằng thứ âm thanh mà không dễ gì những âm thanh khác có được.
Hằng ngày trống trường gọi ta đi học buổi sáng,buổi chiều,trống đổi giờ và tan học.Chúng ta chấp hành vì nó gọi ta bằng tiếng nói thiêng liêng chân thành và cao cả.
Ngoài ra nhân dân sống quanh trường cũng chịu ảnh hưởng bởi cái lệnh không có sự ràng buộc đó,dần dần trở thành thói quen để sắp xếp công việc và sinh hoạt trong gia đình.Vì lẽ đơn giản tiếng trống trường là giờ giấc,là qui ước về thời gian.Chẳng thế nó còn khắc sâu vào ký ức của mỗi chúng ta bao niềm thương nỗi nhớ,bao chuyện vui buồn của thời học trò,nó thong thả buông ra từng tiếng một ,chìm lắng trong không gian để gọi chiều về,một ngày đã trôi qua.Năm học này kế tiếp năm học khác,từ đây sự tích lũy vốn sống,vốn tri thức của chúng ta được phát triển theo năm tháng cùng tiếng trống trường.
Năm học kết thúc,bắt đầu ba tháng hè,tiếng con ve kêu buồn,như gợi lại thiếu vắng tiếng trống trường,ta hằng ước năm học mới bắt đầu.
Lớn lên đi đây đi đó,chúng ta được nghe thêm nhiều tiếng trống nữa:trống trận,trống hội,trống hộ đê,trống báo động,trống đưa người vĩnh biệt cõi đời...Nhưng chỉ có một tiếng trống mà ta yêu quí nhất,tiếng trống trường ,từ trong âm thanh êm ả đó hiện lên trong ta hình ảnh một ngôi trường cụ thể không hề lẫn lộn với bất kỳ ngôi nhà cao tầng nào khác , trường trung học phổ thông Nguyễn trung Ngạn.
Với hình ảnh các thày ,các cô đã đứng trên bục giảng .Sự nghiệp trồng người của các thày ,cô đã dìu dắt bao thế hệ học sinh trưởng thành và tiếng trống trường ngày ấy còn vang vọng đâu đây,nó đã khắc sâu vào tâm khảm chúng ta thứ âm thanh đặc biệt đến kỳ lạ ,đã lay động hàng triệu con tim.

Dương Văn Cường
475 tổ 1 Nam tân nam khê Uông bí Quảng ninh
Đt:0943006408B